Chết lặng trước cảnh hoang tàn
Vừa qua, chúng tôi đã có mặt tại Trung đoàn 98 thuộc Sư đoàn 316, Quân khu 2 để lắng nghe những câu chuyện từ cán bộ, chiến sĩ sau hành trình tìm kiếm các nạn nhân mất tích tại Làng Nủ. Đã một tháng trôi qua từ khi đoàn trở về đơn vị, nhưng ký ức đêm ngày 10/9 vẫn còn nguyên trong tâm trí Trung tá Nguyễn Ngọc Ba, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98. Đó là một đêm không ngủ với cơn mưa dông xé toạc bầu trời, trong lúc anh cùng đơn vị đang hỗ trợ dân chống lũ tại huyện Hạ Hòa, Phú Thọ. Khi đó, trời đã khuya và mọi người chỉ vừa tập kết về vị trí, chuẩn bị nghỉ ngơi sau bữa tối thì chuông điện thoại bất ngờ vang lên, báo lệnh khẩn.
“Sư đoàn trưởng gọi yêu cầu đơn vị cơ động ngay lập tức đến huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai để tìm kiếm người mất tích tại thôn Làng Nủ. Đây là nhiệm vụ khẩn cấp, và tất cả cán bộ, chiến sĩ ngay trong đêm đã sẵn sàng hành quân, với quân trang, dụng cụ, phương tiện cần thiết cho hành trình phía trước,” Trung tá Ba kể lại.
Cuộc hành trình vào vùng lũ
Trời còn tối mịt khi 300 cán bộ, chiến sĩ lên đường lúc 5 giờ sáng, trong cơn mưa xối xả không ngớt. Những chiếc xe ôm cua qua từng con dốc, men theo các sườn núi hiểm trở, nơi đất đá đã bị lũ tàn phá khiến đường đi nguy hiểm khôn cùng. Từ km 78 trên Quốc lộ 70, đoàn quân phải chia thành hai hướng để vào Làng Nủ – một hướng tiếp tục di chuyển bằng xe đến xã Lương Sơn, một hướng khác đi bộ dọc sông Chảy, vượt qua những đoạn đường sạt lở và bùn lầy để kịp thời đến hỗ trợ bà con.
Khoảng 13 giờ chiều, khi đơn vị tiếp cận hiện trường, họ lặng người trước cảnh hoang tàn. “Trước mắt là một bình địa, nơi từng là bản làng nay chỉ còn những cọc gỗ, mái tôn, xác động vật ngổn ngang, và mùi tanh nồng bốc lên không ngừng. Tiếng gào thét, ai oán của những người thân mất mát khiến chúng tôi không thể cầm được nước mắt,” Đại úy Hoàng Thế Anh, Chính trị viên Đại đội 8, Tiểu đoàn 8 chia sẻ.
Cảm giác “chết lặng” lan tỏa trong mỗi cán bộ, chiến sĩ khi chứng kiến khung cảnh tang thương, nỗi đau người mất nhà cửa và mất người thân không thể nào nói hết. Binh nhất Triệu Văn Tiến, từ Tiểu đoàn 8, kể lại: “Dưới lớp bùn sâu là những tài sản, là những người dân vẫn còn nằm lại. Chúng tôi động viên nhau rằng càng khó khăn, càng phải nỗ lực gấp bội để đưa họ về nơi an nghỉ cuối cùng.”
Cuộc tìm kiếm bắt đầu từ chiều hôm đó, trải dài dọc bờ suối từ thủy điện Long Phúc ngược lên Làng Nủ. Với các dụng cụ tạm thời do chưa kịp chuẩn bị đủ phương tiện, Binh nhất Lù Văn Toán kể rằng một chiếc bình gas hỏng đã trở thành chiếc “kẻng” cảnh báo khi có nguy hiểm bất ngờ, giúp các chiến sĩ kịp di chuyển an toàn. Đến chiều, sau hàng giờ đào bới, đơn vị tìm thấy thi thể đầu tiên dưới lớp bùn dày đặc. Thi thể không còn nguyên vẹn, nhưng tất cả đều lặng lẽ động viên nhau tiếp tục nhiệm vụ, dù cho cảnh tượng tang thương thêm khắc sâu trong tâm trí từng người.
Trong những ngày tiếp theo, số lượng thi thể được tìm thấy tăng dần, và nhiều quan tài được đưa đến, xếp thành hàng dài. Trước tình hình mưa gió, đường lầy lội, các chiến sĩ đã phải vượt núi, băng rừng để đưa quan tài đến điểm chôn cất. Trung sĩ Ngô Trung Hiếu, Tiểu đoàn 8, nhớ lại: “Đường đi rất xa, thời tiết thì mưa suốt không ngừng, chúng tôi chỉ muốn kịp giờ để người đã khuất được yên nghỉ theo phong tục.”
Một trong những người có nhiệm vụ hỗ trợ mai táng là Binh nhì Cháng Ngọc Phúc. Lần đầu tiên đảm nhận công việc đặc biệt này, Phúc kể rằng nỗi sợ hãi dường như tan biến, bởi tất cả những gì anh nghĩ đến là làm sao giúp đỡ người dân sớm ổn định cuộc sống sau nỗi đau này. Dù vượt qua nhiều địa hình hiểm trở, mỗi chiến sĩ đều động viên nhau cố gắng, kể cả khi đôi lúc gặp nguy hiểm. Như trường hợp của Binh nhất Lù Văn Toán, trong một lần đưa nạn nhân đi chôn cất, anh không may bị trượt chân ngã và bị quan tài đè lên người. Tuy vậy, sau khi được hỗ trợ, anh lập tức trấn tĩnh và tiếp tục nhiệm vụ của mình.
Sau một tháng kể từ trận lũ quét lịch sử, Làng Nủ vẫn nặng nề nhưng từng bước hồi phục. Báo Lao Động ghi nhận sự trở lại của những người dân Làng Nủ tại các khu tạm cư. Bên trong những ngôi nhà tạm, người dân hỗ trợ lẫn nhau, tìm lại nhịp sống sau mất mát. Dù mất đi gia đình, nhà cửa, hay ruộng vườn, họ vẫn cố gắng bắt đầu lại, với hy vọng sớm có một mái ấm kiên cố để an cư.
Những người như ông Hoàng Văn Vọ và anh Nguyễn Văn Tuấn, dù phải chịu đựng mất mát không gì bù đắp nổi, nhưng họ không ngừng hy vọng. “Nỗi đau còn đó, nhưng giờ tôi phải gác lại để sống tiếp, làm chỗ dựa cho những người thân còn lại,” anh Tuấn nói trong sự kiên cường hiếm thấy.
Những câu chuyện từ Làng Nủ là minh chứng cho sự đoàn kết, hy sinh của các chiến sĩ và nỗ lực của người dân. Giữa hoang tàn và mất mát, tình người và hy vọng vẫn sáng ngời, như ánh đuốc soi lối để người dân và những chiến sĩ không gục ngã trước thiên tai.